Nâng cao hiệu quả việc học tập lý luận chính trị của cán bộ công chức hiện nay
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó có biểu hiện thứ ba: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.
Vấn đề này tiếp tục được Văn kiện Đại hội XIII nhắc đến trong phần nhiệm vụ giải pháp của nhiệm kỳ 2020 - 2025: “Khắc phục tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”. Điều này cho thấy, tình trạng ngại học, lười học lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên đã và đang diễn ra khá phổ biến và đang có nguy cơ trở thành một “căn bệnh” phổ biến trong đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.
Qua thực tế công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, có thể nhận diện những biểu hiện ngại học, lười học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất: cán bộ, công chức chỉ chú ý đến học tập chuyên môn, nghiệp vụ mà ít hoặc không quan tâm đến học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị; chưa nhận thức đúng tầm quan trọng của việc học tập lý luận chính trị. Không ít cán bộ, đảng viên cho rằng việc học tập lý luận ít mang lại hiệu quả, dẫn tới học tập đối phó, nghiên cứu qua loa, đại khái, chiếu lệ, hình thức...
Thứ hai: Chưa chấp hành tốt kỷ luật, kỷ cương trong học tập, rèn luyện như trong học tập còn làm việc riêng, vừa học vừa giải quyết công việc của cơ quan, đơn vị; chưa tích cực tham gia trao đổi, thảo luận; không nghiên cứu tài liệu; bài thi, bài thu hoạch thiếu đào sâu suy nghĩ, tìm tòi gắn lý luận với thực tiễn… Tình trạng cán bộ sử dụng điện thoại để lướt face xem tin tức, thậm chí là xem video trong các buổi học tập nghị quyết hay học viên các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị sử dụng điện thoại để chơi game không phải là hiếm trong thời gian gần đây.
Thứ ba: Học không đi đôi với hành; lý luận chưa gắn liền với thực tiễn. Điều này thể hiện ngay ở các bài thi cuối khóa khi hầu hết các học viên chỉ làm được phần nội dung lý thuyết (chủ yếu là do chép được từ tài liệu), phần liên hệ thực tiễn rất ít học viên thể hiện tốt, chủ yếu chỉ liên hệ chung chung, chưa sát với vị trí công tác hiện tại của bản thân.
Bệnh “lười học tập lý luận chính trị” gây hệ lụy rất lớn đến sự tu dưỡng, rèn luyện và kết quả công tác của mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra: do kém về lý luận, nhiều cán bộ, đảng viên của ta mắc phải bệnh chủ quan, gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện, hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào thì làm thế ấy và kết quả thường thất bại. Căn bẹnh này sẽ làm cho cán bộ, đảng viên “không có cơ sở nhận thức khoa học” để xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học, niềm tin chính trị vào lý tưởng cách mạng. Chí ít thì bệnh này cũng dễ làm cho họ không biết cách xem xét, cân nhắc đúng - sai, xử trí cho khéo trong công việc; không biết rõ điều kiện, hoàn cảnh khách quan, mà cứ nghĩ thế nào làm thế ấy, thiếu sự chỉ dẫn của lý luận khoa học và trở nên mù quáng, dẫn đến chủ quan, duy ý chí dẫn đến sự thất bại liên tục trong công việc. Bên cạnh đó, bệnh “lười học tập lý luận chính trị” còn có thể làm cho cán bộ, đảng viên mắc phải bệnh hẹp hòi, vị kỷ, nặng hơn là thiếu kiên định về chính trị, mơ hồ, mất cảnh giác, a dua, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; cũng có thể rất dễ dẫn đến thay đổi lập trường, quan điểm, đi ngược lại chính những gì đã lựa chọn. Tình trạng a dua chia sẻ hoặc bình luận ủng hộ những thông tin không chính xác, thiếu kiểm chứng trên mạng xã hội, nhất là các thông tin liên quan đến Đảng, đến lãnh tụ, đến chế độ của một số cán bộ, công chức chính là một trong những biểu hiện đầu tiên của tình trạng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” bên trong của cán bộ, đảng viên. Đây trước hết chính là hậu quả của sự mơ hồ trong nhận thức về chính trị - nguyên nhân xuất phát từ chính căn bệnh lười học tập lý luận chính trị.
Nguyên nhân dẫn đến căn bệnh lười học tập lý luận chính trị xuất phát trước hết từ chính người học. Hiện nay, không ít cán bộ, công chức chưa xác định đúng và rõ ràng mục tiêu, động cơ học tập lý luận chính trị của bản thân. Không ít cán bộ, công chức tham gia học tập lý luận chính trị là để lấy bằng cấp nhằm “hợp lý hóa” điều kiện đề bạt, bổ nhiệm, cất nhắc, thăng tiến. Bởi động cơ chưa trong sáng đó nên thiếu ý thức tự giác trong học tập, rèn luyện. Thứ hai, tâm lý được “bao cấp” khi học chính trị tiếp tục tồn tại trong một bộ phận cán bộ, đảng viên khiến việc tiếp thu và vận dụng lý luận chính trị chưa trở thành nhu cầu thiết yếu tự thân của mỗi người. Thứ ba, lối sống đề cao lợi ích vật chất, lợi ích cá nhân, coi nhẹ lợi ích chính trị tinh thần, lợi ích cộng đồng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên ngày càng có xu hướng gia tăng.
Bên cạnh đó, vai trò của các cấp ủy trong việc giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, công chức cũng đóng vai trò rất quan trọng. Hiện nay, một số cấp uỷ có lúc, có nơi chưa thực sự quan tâm, bám sát thực tiễn để lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn công tác giáo dục lý luận chính trị, có hiện tượng khoán trắng cho cơ quan tham mưu, thiếu kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của cơ sở. Việc quản lý thời gian, nội dung, chương trình, số lượng và kết quả học tập có lúc, có nơi còn buông lỏng. Học nghị quyết, chỉ thị bằng hình thức trực tuyến trong thời gian gần đây được nhiều đơn vị ứng dụng. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi thế, hình thức này cũng bộc lộ một số bất cập: các buổi quán triệt nghị quyết được tiếp phát trực tiếp từ điểm cầu của cấp trên, cấp ủy cơ sở không phải tổ chức quán triệt tại cơ quan, đơn vị nữa. Điều này vô hình chung đã làm nảy sinh tâm lý ỷ lại của cấp ủy cơ sở trong việc triển khai quán triệt nghị quyết cho cán bộ, đảng viên; cấp ủy cơ sở (mà trực tiếp nhất là đồng chí bí thư) không còn phải chuẩn bị các bài giảng để quán triệt. Điều này kéo theo hệ lụy là tinh thần, thái độ của cán bộ, đảng viên ở cơ sở khi tham gia các buổi quán triệt nghị quyết cũng thiếu sự nghiêm túc cần có, chất lượng học tập vì vậy có lúc, có nơi chưa đảm bảo. Bên cạnh đó còn có tình trạng chưa chọn, cử đúng, trúng đối tượng tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; một số cấp ủy lựa chọn đối tượng đi học theo kiểu “người nào ít việc thì cử người đó đi học” để không làm ảnh hưởng đến công việc của tập thể. Một số cấp ủy chưa quan tâm, tạo điều kiện tối đa để cán bộ, đảng viên yên tâm, tích cực học tập; còn giao công việc cho cán bộ trong quá trình tham gia học…
Cùng với đó là trách nhiệm chưa cao của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Ở một số nơi, việc mở rộng quy mô đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn liền với nâng cao chất lượng. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng chậm được đổi mới, bổ sung, cập nhật, còn trùng lặp, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn, rèn luyện tư tưởng chính trị, đạo đức, phong cách lãnh đạo, quản lý. Phương pháp giảng dạy, học tập chậm được đổi mới, nặng về truyền đạt kiến thức, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học viên. Công tác quản lý đào tạo còn có mặt yếu kém, nhất là quản lý tự học của học viên.
Căn bệnh lười học tập lý luận chính trị còn xuất phát từ một nguyên nhân khác nữa là từ chính năng lực, phẩm chất của cán bộ trực tiếp tiến hành công tác giáo dục lý luận chính trị. Các môn học lý luận chính trị vốn bị các thế hệ sinh viên đặt tên là môn học 3K (nghĩa là Khô – Khó nên Khổ). Do vậy, nếu giảng viên, báo cáo viên không có phương pháp truyền đạt linh hoạt, sinh động thì sẽ rất khó để thu hút người nghe. Thực tế cho thấy hiện nay rất nhiều cán bộ lãnh đạo, quản lý được phân công làm giảng viên kiêm chức giảng dạy các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị nhưng thiếu nghiệp vụ sư phạm, thiếu sự tâm huyết, say mê, trách nhiệm với nhiệm vụ được phân công. Một bộ phận giảng viên, báo cáo viên chỉ chú ý truyền bá tri thức mà không quan tâm truyền cảm hứng, niềm tin, đôi khi lạm dụng ví dụ thực tiễn để nói chuyện tiêu cực, phê phán, chê bai xã hội, đưa sự bức xúc, bất mãn của cá nhân vào bài giảng, tác động tiêu cực đến tâm lý của người nghe. Bên cạnh đó, một bộ phận báo cáo viên nắm kiến thức chưa sâu, nên khi người nghe hỏi lại một vấn đề nào đó liên quan đến bài giảng thì không thể giải đáp thấu đáo, kịp thời.
Một nguyên nhân nữa không thể không nhắc đến là sự mẫu thuẫn giữa lý tưởng và hiện thực trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nhà nước chúng ta đang xây dựng là Nhà nước của dân, do dân, vì dân nhưng thực tế vẫn đang xảy ra các vụ việc mất dân chủ ở nhiều nơi. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực chủ yếu xảy ra ở đảng viên có chức quyền, hàng loạt cán bộ cấp cao luôn miệng tuyên truyền học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nhưng lại vi phạm pháp luật đến mức bị cách chức, khai trừ ra khỏi Đảng, thậm chí bị khởi tố. Nhiều giá trị đạo đức tốt đẹp đang bị mai một, các tệ nạn ma túy, mại dâm, bạo lực học đường gia tăng, tình cảm gắn kết gia đình, tình làng nghĩa xóm có lúc, có nơi bị xem nhẹ… Những hiện tượng trái ngược giữa lý thuyết và thực tiễn, giữa lý tưởng và hiện thực không được lý giải thoả đáng khiến nhiều người mất niềm tin vào chế độ, khiến nhiều nội dung giáo dục lý luận chính trị trở nên xa vời, thiếu hấp dẫn, không đi vào cuộc sống, trở thành “lý thuyết suông”. Thực tế đã chứng minh rằng chỉ khi nào lý luận chính trị góp phần giải quyết, lý giải những vấn đề mới và khó đặt ra từ thực tiễn, cả ở tầm vĩ mô và vi mô cũng như việc vận dụng trong giải quyết những công việc cụ thể của từng cá nhân thì lúc đó mới thuyết phục được người học tham gia học tập với tinh thần, thái độ nghiêm túc thực sự.
Để “chữa” được “căn bệnh” lười học tập lý luận chính trị này, cần có các giải pháp đồng bộ giải quyết tất cả các nguyên nhân nêu trên.
Thứ nhất, đối với cấp ủy các cấp: các cấp ủy địa phương, cơ quan, đơn vị cần: (1) Nhận thức đúng việc giáo dục lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên trách nhiệm trước hết thuộc về cấp ủy cơ sở. Do đó, hàng năm cần xây dựng kế hoạch bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, công chức một cách cụ thể, trong đó đồng chí bí thư cấp ủy phải là người chịu trách nhiệm chính trong việc quán triệt, tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết đến với cán bộ, đảng viên. Cần làm cho cán bộ, công chức nhận thấy rõ học tập lý luận chính trị là nghĩa vụ, cũng là quyền lợi của mỗi người. (2) Gắn việc xây dựng quy hoạch cán bộ với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ theo tiêu chuẩn chức danh của từng giai đoạn. Khắc phục triệt để tình trạng chuẩn bị bổ nhiệm mới cử cán bộ đi học hoặc cho nợ bằng lý luận chính trị trong bổ nhiệm cán bộ. Chọn, cử cán bộ đi đào tạo đúng đối tượng, thiết thực, tránh tốn kém, lãng phí. 3) Phối hợp chặt chẽ với đơn vị đào tạo tiến hành kiểm tra, đánh giá nghiêm túc, thực chất quá trình và kết quả học tập của cán bộ, đảng viên được cử đi học; coi trọng và có kế hoạch bố trí, tạo điều kiện để cán bộ vận dụng kết quả học tập vào thực tiễn công tác. Đối với các lớp quán triệt nghị quyết của cấp ủy, sau học tập cần triển khai cho cán bộ, đảng viên viết bài thu hoạch, chấm và công bố kết quả để từ đó nâng cao ý thức trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên khi tham gia học tập.
Thứ hai, đối với người dạy: đội ngũ cán bộ làm công tác giáo dục lý luận chính trị phải là những người có đủ phẩm chất đạo đức và tài năng, chuyên môn. Do đó, mỗi giảng viên, báo cáo viên cần thường xuyên trau dồi, rèn luyện kỹ năng nghiệp vụ sư phạm, tự học tập nghiên cứu để nâng cao trình độ về mọi mặt, đồng thời phải là tấm gương “tự học và sáng tạo”, dày dạn kinh nghiệm thực tiễn, am tường lý luận sâu sắc, có năng lực sư phạm tốt, phương pháp truyền đạt hấp dẫn. Đội ngũ giáo viên, báo cáo viên cần chú trọng nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung theo hướng thiết thực, gắn với thực tiễn sinh động. Chủ động cập nhật các kiến thức mới, các kiến thức từ thực tiễn để làm mới bài giảng.. Theo đó, lý luận chính trị phải góp phần giải quyết, lý giải những vấn đề mới, hóc búa từ thực tiễn đặt ra cả ở tầm vĩ mô và vi mô, kể cả việc vận dụng trong giải quyết những công việc cụ thể. Có như vậy, việc học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên mới có ý nghĩa thực sự và tránh được tình trạng “lý luận suông”.
Thứ ba, đối với các cơ sở đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị: quan tâm xây dựng đội ngũ giảng viên đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Xây dựng quy chế, quy định quản lý chặt chẽ các đối tượng tham gia học. Tổ chức thi cuối khóa đảm bảo thực chất, công bằng. Cùng với đó, cần chú trọng xây dựng môi trường văn hóa Trường Đảng, ứng xử văn minh, thân thiện, nhân văn để nhà trường trở thành địa chỉ đỏ về rèn luyện lý tưởng về đạo đức, phẩm chất cách mạng, trình độ lý luận chính trị, kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho mỗi học viên đến học tập.
Thay đổi nhận thức của cấp ủy cơ sở; thay đổi phương pháp truyền đạt giảng dạy của giảng viên và công tác quản lý, đánh giá của các cơ sở giáo dục, đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị sẽ có tác động tích cực đến tâm lý, ý thức của người học. Nếu cấp ủy quan tâm thì cán bộ, công chức sẽ thấy được tầm quan trọng của việc học tập lý luận chính trị. Nếu đội ngũ báo cáo viên, giảng viên có phương pháp truyền đạt hấp dẫn thì người học sẽ có hứng thú tham gia. Nếu cơ sở đào tạo bồi dưỡng quản lý chặt chẽ, đánh giá công bằng thì các học viên sẽ nghiêm túc trong suốt quá trình học. Từ đó, căn bệnh lười học tập lý luận chính trị sẽ dần dần được khắc phục. Đồng thời, bản thân người học cũng cần phải xác định đúng động cơ, mục đích của việc học tập lý luận chính trị. Cần phải đưa việc học tập lý luận chính trị trở thành nhu cầu tự thân của mình để từ đó tham gia học với tình thần, trách nhiệm cao nhất. Đồng thời, cần gắn những kiến thức đã được học vào thực tiễn công tác; không ngừng phấn đấu, tu dưỡng đạo đức cách mạng, trình độ lý luận chính trị, kỹ năng, phương pháp luận thông qua con đường tự học tập, tự nghiên cứu gắn với sự định hướng, dẫn dắt của đội ngũ thầy giáo, cô giáo.
Bên cạnh đó, cần có một giải pháp ở tầm vĩ mô để khắc phục tình trạng mất dân chủ đang diễn ra ở nhiều nơi. Trong đó, tập trung các giải pháp: (1) Tiếp tục phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng; (2) Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây dựng, củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (3) Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội phát huy vai trò, vị trí của mình theo quy định của Đảng và các văn bản pháp luật để thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, nhất là những vấn đề liên quan đến phát huy dân chủ, đến quyền và lợi ích của các thành viên, đoàn viên, hội viên; (4) Phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy; chính quyền các cấp và các cơ quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc “đốt lò”, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên lợi dụng quyền hạn để trục lợi cá nhân để củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng, với chế độ.
Học tập lý luận chính trị là cơ sở để đảng viên nắm chắc đường lối, chủ trương; loại bỏ chủ nghĩa cá nhân; ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; từ đó, cống hiến tích cực, hiệu quả hơn cho sự nghiệp của Đảng, của nhân dân. Nâng cao ý thức tự học tập, tự nghiên cứu lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên cũng chính là một cách để góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.
Võ Thị Kim Dung