Một trong những điểm nhấn của Hội nghị Trung
ương 4 khóa XIII là “kiên quyết đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong
toàn Đảng”.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá XIII.
CẦN NHẬN RÕ NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC CỦA CÁCH
MẠNG DO ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ NHỮNG TIÊU CỰC TRONG ĐẢNG
Trong mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng, Hội nghị
Trung ương lần thứ tư thường diễn ra vào quý IV năm đầu của nhiệm kỳ. Hội nghị
Trung ương lần thứ tư các nhiệm kỳ Đại hội XI, XII và XIII của Đảng đều có nội
dung bàn về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Điều đó cho thấy, Đảng ta đặc
biệt quan tâm tới sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới. Hội nghị
Trung ương lần thứ tư khóa XIII là sự kế thừa, phát triển các nghị quyết hội
nghị Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong 35 năm đổi mới, đặc biệt là
Hội nghị Trung ương lần thứ tư khóa XI và XII.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII nêu rõ thành
tựu của cách mạng Việt Nam hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là “từ
ngày có Đảng, nhân dân ta đã có người lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, và nhờ thế
đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong
thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó
khăn, thách thức và đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất
nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày
nay. Chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào về bản chất tốt đẹp, truyền thống anh
hùng và lịch sử vẻ vang của Đảng ta -Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng
lập và rèn luyện, đại biểu của dân tộc Việt Nam anh hùng”.
Đồng thời, Nghị quyết cũng vạch ra những tiêu
cực, hư hỏng của cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” trong nội bộ. Trong đó, nhấn mạnh nhất là sự “phai nhạt lý tưởng cách
mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm
tin; nói trái, làm trái quan điểm đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến
đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ
họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết
lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực
hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt Đảng”.
Trung ương nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan là
chủ yếu, “bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc bản thân cán bộ, đảng viên
thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ
nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân”. Vì vậy,
Trung ương nhấn mạnh phải “kiên quyết đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cá nhân
trong toàn Đảng”.
Nhân đây, cần nói thêm, nhấn mạnh mấy điểm về
chủ nghĩa cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân là quan điểm của người chỉ
chú trọng đến quyền lợi riêng của mình, đặt quyền lợi của cá nhân mình lên trên
quyền lợi của toàn thể và của xã hội. Khác với cá nhân
chủ nghĩa là nói đến hành vi cụ thể chỉ
nghĩ đến quyền lợi của riêng mình, không nghĩ đến quyền lợi của người khác hay
của tập thể, nói chủ nghĩa cá nhân là nói
đến quan điểm, tức là cách xem xét và giải quyết vấn đề
quan hệ giữa cá nhân và tổ chức, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung theo lập
trường, quan điểm và tư tưởng nào? Trung ương nói tới chủ nghĩa cá nhân là nói
tới cái nguồn, cái gốc có tính chất bao trùm, xuyên suốt, cao hơn, rộng hơn,
sâu hơn cá nhân chủ nghĩa, “cha đẻ” của mọi thứ xấu xa, tội lỗi, trong đó, có
cá nhân chủ nghĩa. Vì vậy, muốn đẩy lùi các tiêu cực, suy thoái, tha hóa của
cán bộ, đảng viên “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thì phải tiêu
diệt, quét sạch, nhổ tận gốc là chủ nghĩa cá nhân.
Đánh giá tư tưởng và ý thức của đảng viên là
thông qua cách xem xét, bàn bạc và hành động của đảng viên đối với các vấn đề
quan trọng của cuộc đấu tranh chính trị, tư tưởng, tổ chức, đường lối cách
mạng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Xem thái độ và lập trường của mọi người đối với
những vấn đề căn bản của cuộc đấu tranh chính trị, xem cách bàn bạc hành động,
xem kế hoạch, phương châm của họ đối với những vấn đề ấy, thì ta biết rõ họ đại
biểu cho tư tưởng, quan điểm, mong muốn, và lợi ích của giai cấp nào”(1).
Chủ nghĩa cá nhân là trái ngược với chủ nghĩa
tập thể. Cách đặt vấn đề của chủ nghĩa tập thể là luôn luôn xuất phát từ lợi
ích cách mạng để phục vụ cho lợi ích cách mạng. Ý thức và tư tưởng của giai cấp
vô sản biểu hiện cụ thể, rõ ràng trong lập trường và thái độ, đường lối và
phương châm trong hoạt động và đấu tranh chính trị phục vụ cho lợi ích của Tổ
quốc và nhân dân. Người nhận thức rõ và đề cao chủ nghĩa tập thể là người có
đảng tính. Tức là bất kỳ bao giờ, ở đâu, bất kỳ việc gì dù lớn hay bé đều phải
tính đến lợi ích chung của cách mạng. Tư tưởng của những người theo chủ nghĩa
tập thể là chỉ có sự nghiệp của Đảng và dân tộc, lợi ích của dân tộc, của Tổ
quốc, việc của cá nhân và lợi ích cá nhân để lại sau. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”(2).
Cách đặt vấn đề của chủ nghĩa cá nhân là xuất
phát từ cá nhân để phục vụ cho cá nhân. Do đó, cách giải quyết của người mang
nặng chủ nghĩa cá nhân, thậm chí chỉ dính vào chủ nghĩa cá nhân là khi thấy lợi
ích cá nhân và lợi ích của Đảng, của cách mạng, Tổ quốc, nhân dân có mâu thuẫn,
thì họ không sẵn sàng, không kiên quyết đặt lợi ích chung của cách mạng lên
trên hết, lên trước hết. Thậm chí họ làm ngược lại, đặt lợi ích cá nhân ra
trước lợi ích của Đảng; lợi ích của nhân dân phục tùng lợi ích cá nhân; lợi ích
toàn thể phục tùng lợi ích nhóm. “Họ mang nặng chủ nghĩa
cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình. Họ không lo
“mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”(3).
Vấn đề chủ nghĩa cá nhân đã được Hồ Chí Minh
đề cập từ rất sớm. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám, Người chỉ ra “trong Đảng ta
còn có những người chưa học được, chưa làm được bốn chữ “chí công vô tư”, cho
nên mắc phải chứng chủ nghĩa cá nhân.
Chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh
nguy hiểm”(4). Chỉ dẫn của Hồ Chí Minh cho ta nhận thức chủ nghĩa cá
nhân là bệnh gốc, bệnh mẹ; là vi trùng rất độc; chống chủ nghĩa cá nhân phải đi
liền với thực hành chí công vô tư, nêu cao chủ nghĩa tập thể.
Trong di sản của mình, Hồ Chí Minh chỉ rõ chủ
nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi
xuống dốc. Chủ nghĩa cá nhân là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội. Người
cách mạng phải tiêu diệt nó. “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội
không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”(5).
Phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng.
Cần phải hiểu thấu, nói đến chủ nghĩa cá nhân
là nói đến tư tưởng tiểu tư sản ở trong mỗi người. Nó chờ dịp thất bại hoặc
thắng lợi là ngóc đầu dậy. Nhưng thể hiện từng nơi, từng lúc, từng trình độ,
cương vị công tác khác nhau.
Nghị quyết Trung ương chỉ ra đối với cán bộ,
đảng viên, chủ nghĩa cá nhân biểu hiện ở chỗ sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ
lợi, hám danh, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; bè phái, cục bộ, mất đoàn
kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của dân. Từ sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có
thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thể lực xấu, thù địch, cơ hội, phản
bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Phải nhận thức đúng đắn rằng “đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân không phải là “giày xéo lên lợi ích cá nhân”(6).
Bởi vì, “mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của
bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi
ích tập thể thì không phải là xấu”(7). Vấn đề là ở chỗ “lợi ích của
cá nhân gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi
ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục
tùng lợi ích chung của tập thể”(8).
NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH QUÉT SẠCH CHỦ
NGHĨA CÁ NHÂN
Hội nghị Trung ươpng 4 khóa XII đề ra 4 nhóm
nhiệm vụ, giải pháp. Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII nhấn mạnh thêm 2 nhóm
nhiệm vụ, giải pháp là “xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược
và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; và kiên
quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán
bộ sai phạm. Theo đó phải chú trọng nêu gương những người tốt, việc tốt; ngăn
ngừa, cảnh báo, phê phán những việc làm sai trái”.
Xuất phát từ những lời dạy của Hồ Chí Minh và
các giải pháp Trung ương nêu ra, xin nhấn mạnh, làm rõ mấy điểm như sau:
Thứ nhất, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và XIII
đều đề cập công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Vấn đề đặt ra là phải xem lại
chúng ta đã thực hiện nhiệm vụ, giải pháp này đến đâu? Như thế nào? Cái gì làm
tốt, cái gì chưa tốt, nguyên nhân, giải pháp? Phải chăng công tác giáo dục
chính trị tư tưởng vẫn chưa thật sự thấm sâu vào tim, óc của cán bộ, đảng viên.
Cấp ủy đảng các cấp và cán bộ, đảng viên nhận thức và thực hiện nhiệm vụ này
chưa thấu.
Trong những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh, có một
điều rất quan trọng thể hiện tư cách của một Đảng chân chính cách mạng, xuyên
suốt trong lãnh đạo của Đảng. Đó là “Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị
quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những
nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy
của nhân dân đối với Đảng”(9).
Nhiệm vụ, giải pháp hàng đầu và xuyên suốt là
phải xem xét lại việc giáo dục chính trị tư tưởng để có biện pháp ráo riết,
triệt để khắc phục những gì làm chưa được, chưa tốt. Bởi vì, có được giáo dục
chính trị tư tưởng một cách thật sự mà cụ thể là giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà
nước, nhiệm vụ và đạo đức của người đảng viên thì mới củng cố được đạo đức cách
mạng, giữ vững lập trường, nâng cao hiểu biết và trình độ chính trị, mới chống
được chủ nghĩa cá nhân, làm tốt công tác Đảng giao phó cho mình.
Không ít cấp ủy, cán bộ, đảng viên xem nhẹ,
coi thường việc học tập chính trị tư tưởng. Họ không hiểu rằng nhận thức sai
thì hành động sai; nhận thức lệch lạc, méo mó thì hành động lệch lạc, méo mó.
Hiểu không thấu thì làm không đúng. Vấn đề là học để mà làm. Lý luận đi đôi với
thực tiễn.
Thứ hai, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII nêu lại,
nhấn mạnh việc phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của báo chí, của công
luận. Đây là nhiệm vụ, giải pháp rất quan trọng và rất cần thiết được Hồ Chí
Minh bàn tới rất sớm, sâu sắc, toàn diện. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và
XII đã đề cập. Muốn nhân dân, báo chí, công luận thực hiện được vai trò giám
sát thì điều quan trọng nhất là xây đắp, vun bồi nền dân chủ. Phát huy quyền
làm chủ thật sự của nhân dân. Đây là cốt lõi của giải pháp hoàn thiện tính khoa
học của bộ máy và cơ chế.
|

Chủ tịch Hồ Chí Minh
tại lễ văn khai mạc Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Ðảng
05/09/1960. (Ảnh tư liệu)
|
Dân giám sát là một điểm mới, điểm nhấn trong
Đại hội XIII. Muốn thực hiện tốt điều này, không gì tốt hơn học và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Trước hết, cán bộ, đảng viên phải hiểu thấu
rằng “nhân dân trăm tai nghìn mắt vẫn có nhiều ý kiến thông minh có thể giúp
cho các chú tiến bộ hơn… Công tác gì muốn làm tốt đều phải coi trọng ý kiến của
nhân dân”(10). Dân chủ là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng
đường lối quần chúng, khuyến khích, tạo điều kiện cho quần chúng nói. Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Điều quan trọng nhất là để cho dân nói. Dân biết nhiều việc mà
các cấp lãnh đạo không biết. Việc gì cũng phải bàn với dân; dân sẽ có ý kiến
hay”(11). Theo Hồ Chí Minh, nhân dân kiểm soát là tốt nhất, đó là
kiểm soát từ dưới lên. Người viết: “Một cách nữa là từ dưới lên. Tức là quần chúng và cán bộ kiểm soát sự sai
lầm của người lãnh đạo và bày tỏ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó. Cách này là
cách tốt nhất”(12).
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng nhấn
mạnh, phải có “cái lồng nhốt” quyền lực. “Cái lồng” đó là vai trò, trách nhiệm
của các tổ chức thanh tra, kiểm tra, giám sát, cấp ủy. Nhưng nhất định phải dựa
vào “cái lồng nhân dân” với nội dung cốt tủy là dân chủ thật sự.
Cơ chế, bộ máy, trong đó có khía cạnh tính
nghiêm minh của pháp luật và kỷ luật đảng. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng thì hàng
đầu, xuyên suốt là giải thích, thuyết phục, cảm hóa, giáo dục. Nhưng không phải
là không xử phạt. Nếu không xử phạt thì mất hết kỷ luật, thì sẽ mở đường cho
bọn cố ý phá hoại. Theo Hồ Chí Minh, “pháp luật phải thẳng tay trừng trị những
kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm nghề nghiệp gì”(13).
Thứ ba, ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nêu gương
của cán bộ, đảng viên là hết sức quan trọng, vì “một tấm gương sống có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Mặt khác, tính xấu của môt người
thường, chỉ có hại cho người đó; còn tính xấu của một đảng viên, cán bộ sẽ có
hại đến Đảng, có hại đến nhân dân.
Bộ máy, cơ chế dù hoàn thiện đến đâu mà con
người hư hỏng thì sẽ phá tan bộ máy. Trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự gương
mẫu của Trung ương là cực kỳ quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Tư tưởng, đạo
đức, phong cách, phương pháp của các đồng chí Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính
trị, Ban Bí thư, các đồng chí đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp có ảnh
hưởng, tác động rất lớn tới quần chúng nhân dân và xã hội. Công cuộc đổi mới
thuận lợi hay khó khăn, thành công nhiều hay ít đều do cán bộ tốt hay kém.
Hy vọng và tin tưởng rằng, nếu nhận thức và
hành động đúng thì khía cạnh nhỏ sẽ đem lại kết quả lớn trong việc quét sạch
chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, góp phần vào công tác xây dựng,
chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng./.
PGS.TS. Bùi Đình Phong/ tuyengiao.vn
__
(1) (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.6, tr.292, 127.
(2) (4) (7) (8) (9) (12) Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.5, tr.290, 295, 610, 610, 290, 328.
(3) (10) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.15, tr.546-547, 668, 526.
(5) (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.11, tr.609, 610.
(10) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập,
Sđd, t.15, tr.668, 526.